Môn học LSMTTG và các nền văn minh nhân loại

Mỹ thuật Ai Cập cổ đại

(4000 năm TCN - thế kỷ IV TCN - năm 332)

Dựa vào cách phân chia lịch sử Ai Cập cổ đại (từ 4000 TCN - 332 TCN - Thế kỷ IV TCN), mỹ thuật Ai Cập cổ đại cũng sắp xếp thành 5 thời kỳ tương ứng:

5 giai đoạn Ai Cập cổ đại
  1. Mỹ thuật thời Tảo Vương Quốc (4000 -3000 TCN)
  2. Mỹ thuật thời Cổ Vương Quốc (3000-2200 TCN)
  3. Mỹ thuật thời Trung Vương Quốc (2200-1570 TCN)
  4. Mỹ thuật thời Tân Vương Quốc (1570-1100 TCN)
  5. Mỹ thuật thời Hậu Vương Quốc (từ TK X đến I TCN - 1100 - 31 TCN)

 

1. Mỹ thuật thời Tảo vương quốc (4000 -3000 TCN)

  • Thời kỳ Tảo vương quốc (3000-2200 TCN) trong lịch sử Ai Cập cổ đại bao gồm hai vương triều I và II. Vương triều I do Menes (hay Horus Narmer), người xuất thân từ vùng Nam Ai Cập sau khi đánh đuổi người phương Đông, thành lập quốc gia Ai Cập thống nhất năm 3100 TCN (*), Sau đó đến Vương triều II do Hotepsekhemwy sáng lập.
  • Trong thời gian tồn tại, kinh đô của hai vương triều là thành This nên còn gọi là "thời Thinite". Vương triều I trị vì 250 năm ,

(*) Menes được coi là người khai sinh ra nước Ai Cập, Tuy nhiên, về định năm còn tranh luận nhiều, Phần đông xếp cuộc thống nhất Ai Cập của Menes vào năm 3100 TCN. Có người xếp trễ đến năm 2900 TCN. Tài liệu xưa của Julius Africanus xếp sớm đến năm 5664 TCN.

  • Sử liệu về hai vương triều không nhiều và nội dung khá khác nhau. Căn cứ vào một số di vật khảo cổ được khai quật rải rác khắp mọi miền trên đất nước Ai Cập, người ta tìm thấy rất nhiều vật dụng, dụng cụ bằng đồng, đồ trang sức mỹ nghệ, bình lọ... hình vẽ phản ánh sinh hoạt như đi săn, câu cá, cảnh cúng lễ, làm ruộng, thuyền bơi qua sông Nile... Thậm chí có những ngôi mộ có hàng ngàn bức tượng gỗ diễn tả tư thế lao động của con người như cấy, múc nước, nghiền bột, trồng cây... (mỗi tượng cao không quá 40 cm).
  • Qua các di vật trên cho thấy vào thời kỳ này, các cư dân sống ở đồng bằng sông Nile đã biết sử dụng kim loại chế tác công cụ lao động để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt thường ngày và cả cho chiến tranh... Tuy nhiên, trình độ chế tác công cụ vào buổi đầu chưa cao, chủ yếu là những chiếc cuốc bằng đá. Đến cuối thời kỳ họ đã biết đến đồng, chì. Riêng vàng, bạc thì đã được sử dụng làm trang sức từ khá sớm.
Về mỹ thuật
  1. Người Ai Cập đã biết ứng dụng các kỹ thuật tạo hình để làm đẹp sản phẩm như: mài nhắn các công cụ, khoan lỗ vào đá, vào kim loại; khắc chạm trên ngà voi, tạc tượng (các chất liệu đất sét, gỗ, đá...và đổ đồng), vẽ hình, dệt vải gai...
  2. Hình thức tạo dáng (hoặc trang trí) trên lọ, bình, tượng có khuynh hướng diễn đạt trung thành dù cách thể hiện mang "tính trang trí". Màu sắc: trắng trên nền đỏ. Về sau, có khuynh hướng dùng đỏ nâu trên nền vàng.
  • Đặc biệt: có một phiến đá với hai mặt có những dòng chữ ngắn ghi lại chiến công của vua Menes trong việc thống nhất Ai
    Cập; cùng hình khắc nổi thể hiện ông trong nhiều tư thế khác nhau, nhưng mình luôn thẳng, mặt, tay chân thì... nhìn nghiêng.
  • Ý nghĩa của phiến đá này ở chỗ không chỉ là ghi chép lịch sử, mà còn là chứng nhân cho "phong cách" của một nền nghệ thuật:
    "phong cách Ai Cập" vào giai đoạn đầu tiên, sau đó kéo dài hơn 3000 năm sau. (Nguyễn Trân, cần minh họa)
Về điêu khắc

• Bức tượng "người" đầu tiên tìm được trong thời kỳ này miêu tả vị vua già tìm được ở Abidon (hiện đang lưu giữ ở bảo tàng British, Anh) (cần minh họa). Mặc khác, tài liệu khảo cổ còn cho biết dưới thời Pharaon Hotepsekhemwy (2rd), tượng của ông được đúc bằng đồng,

Về kiến trúc
  • Vào thời kỳ này, hai vương triều đã cho xây nhiều lăng mộ. Buổi đầu, mộ có hình tròn như hình thức ụ cát, phủ cành cây. Sau đó chuyển sang hình thể vuông, xây bằng gạch chưa nung, đặt chéo nhau bên trên hay bằng những phiến đá dựng nghiêng ngay trên mặt đất.
  • Đáng chú ý là những ngôi mộ đồ sộ của tầng lớp quý tộc (còn gọi là Mastaba) có kiểu dáng là một khối đá hình thang được xây trên mặt bằng hình chữ nhật. Cấu trúc bên trong Mastaba có ba phòng: sảnh, phòng tế lễ và phòng thờ (nơi đặt tượng người chết).
  • Từ mặt trên của Mastaba, người ta đào một giếng hình tròn (hoặc vuông), sâu khoảng 30 m. Đáy giếng thông sang một hành lang rồi đến nơi mai táng (nơi để quan tài). Sau khi chôn người chết, giếng được lấp kín.
  • Ở Ai Cập còn tìm thấy nhiều nơi có dấu vết của các khu vực có Mastaba như khu lăng mộ ở Memphis, xây dựng vào Vương triều III, khoảng thế kỷ XVIII TCN.
  • Loại hình kiến trúc lăng mộ này là nguồn gốc ban đầu của các kim tự tháp về sau.

2. Mỹ Thuật thời Cổ Vương Quốc (3000 - 2200 TCN) / (2815 - 2400 TCN)

  • Cổ vương quốc trong lịch sử Ai Cập cổ đại bao gồm 8 vương triều, từ Vương triều III đến Vương triều X (*). Đây là thời kỳ hình thành và củng cố nhà nước trung ương tập quyền và cũng là thời kỳ phát triển hưng thịnh đạt các mặt kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự và nghệ thuật của Ai Cập cổ đại.

(*) Trong đó từ Vương triều VII và Vương triêu VIII - 2400 - 2200 TCN, là thời kỳ Ai Cập bị phân chia thành nhiều tiểu vương quốc. Vương triều VIỊ loạn lớn: 70 hoàng đế cai trị 70 ngày được xếp là thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2.400 TCN - 2.046 TCN). Vương triều IX, Vương triều X (2200 - 2050 TCN) là thời kỳ chiến tranh liên miên giữa các tiểu vương quốc, và kết thúc bằng sự tái thống nhất của Mentuhotep II, lập nền Vương triều XI

Đứng đầu bộ máy nhà nước là vua (Pharaon) được coi như vị thần sống, có quyền lực tối cao đã huy động sức người, sức của để xây dựng cho mình những lăng mộ, đền đài. kim tự tháp rất đồ sộ.

  • Tầng lớp thứ nhất: nông dân công xã, chiếm đại bộ phận cư dân AI Cạp la họ được tự do sản xuất và nộp thuế cho nhà nước.
  • Tầng lớp thứ hai: nô lệ (Jets - con vật) hầu hết là tù binh bị bắt trong chiến tranh. Họ sinh sống và phục vụ cho vua hay tầng lớp quý tộc, giàu có và được coi là tài sản của tầng lớp này. Ngoài ra, tầng lớp khác: thương nhân, thợ thủ công..., vai trò của họ không có gì nổi bật.

 

  • Vương triều III (2815 - 2700 TCN) Do Djoser sáng lập. Trong suốt thời gian trị vì ông đem quân đi chinh phạt các bộ tộc người bản xứ vùng Đông Bắc và Nam Ai Cập.
  • Ông là người đầu tiên cho xây kim tự tháp trong lịch sử xây dựng kim tự tháp Ai Cập. Đó là kim tự tháp có bậc thềm đầu tiên ở Saqqara do kiến trúc sư Tể tướng Imhotep thiết kế và chỉ đạo xây dựng. Vua cuối cùng của Vương triều III là Huni
  • Vương triều IV (2700 - 2400 TCN): Do Sneferu sáng lập. Ông là người chuyển kim tự tháp có thềm thành kim tự tháp phẳng. Sau đó, ông cho xây kim tự tháp Đỏ, kim tự tháp Bent ở Dashur là kim tự tháp lớn nhất lúc ấy khi chưa có các kim tự tháp ở Giza.
  • Các vua kế tiếp Khufu, Khafre và Menkaure là chủ nhân quần thể kim tự tháp lớn ở Giza (*). Vị vua cuối cùng của vương triều là Shepseskaf cho xây kim tự tháp Shepseskaf kiểu Mastaba ở Saqqara.

(*) Trong quần thế này Cheops (còn gọi là Khufu) là kim tự tháp lớn nhất được xây dưới sự chỉ thị của Tể tướng Hemon. Đây là một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại. Đằng trước kim 
tự tháp Khafre, là pho tượng nhân sư khổng lồ có mang đầu Pharaon Khafre được ông cho xây dựng.

  • Mỹ thuật thời kỳ này phát triển khá đồng đều gồm đủ các loại hình kiến trúc, điêu khắc và hội họa. Trong đó, nghệ thuật kiến trúc với các công trình xây dựng kim tự tháp, đền đài vô cùng độc đáo, kéo theo các loại hình khác cùng phát triển làm nên trang sử vàng son trong lịch sử mỹ thuật Ai Cập cổ đại.
Kiến trúc
  • Là loại hình nghệ thuật nổi bật nhất thời kỳ với việc xây dựng kim tự tháp. Đây là lăng mộ do Pharaon xây dựng với ước vọng lưu lại tiếng tăm và quyền uy bất diệt của mình đời đời.
    Căn cứ vào các di tích còn lại đến nay cho thấy, đặc điểm kiến trúc của Ai Cập cổ đại là công trình có quy mô lớn, kích thước đồ sộ, nặng nề và thần bí tập trung các hình thức lăng mộ kim tự tháp và đền thờ.
  • Kim tự tháp đầu tiên được bắt đầu xây dựng là lăng mộ của Djoser (3rd). Công trình do Imhotep - một vị quan đầu triều của vương triều III chỉ đạo xây dựng (2770 TCN).
  • Đây là ngôi tháp có 6 bậc (còn gọi là kim tự tháp nhiều tầng bậc), đáy hình chữ nhật, cạnh dài 126 m, rộng 106 m, cao 60 m, càng lên cao càng nhỏ dần (ảnh).
  • Xung quanh tháp Djoser có đền thờ, mộ các thành viên trong gia đình và những người thân cận. Toàn bộ khu lăng này được bao bọc bởi một tường thành xây bằng đá vôi.
  • Ngoài đá, còn sử dụng gỗ, gạch để xây dựng công trình phụ. Tường được quét một ngọc thạch trắng hoặc ốp bằng gạch men xanh. Cột tròn có hình hoa của cây chỉ thảo (papyrus), còn loại nửa cột thì đầu cột là hình hoa sen.
  • Tất cả hợp lại thành một tổng thế kiến trúc phức tạp.
  • Sau đó, Pharaon Sneferu người sáng lập Vương triều IV đã chuyển từ hình dạng kim tự tháp có bậc thành dạng cạnh thẳng và số bậc giảm còn 3 khi xây dựng kim tự tháp cho mình (hình). Ngoài kim tự tháp này, ông còn cho xây kim tự tháp Đỏ ở Meidum, kim tự tháp Bent ở Dashur.
  • Các Pharaon kế tiếp phát triển thành kim tự tháp trơn, có cạnh thẳng. Tiêu biểu nhất là quần thể kim tự tháp ở Giza (Gizeh).
    Gồm ba kim tự tháp lớn mang tên 3 vị vua của Vương triều IV: Cheops (còn gọi là Khufu *), Kephren và Mykerinus (*).

(*) Kim tự tháp Cheops xây dựng khoảng 2.900 năm TCN, cao 138 m, đáy hình vuông cạnh dài 225 m. Vật liệu xây dựng là đá, bên ngoài phủ lớp đá vôi trắng. Theo Horedotus, nguồn đá được lấy từ (mỏ đá hữu ngạn sông Nile cách khoảng 30 km). Có khoảng 300.000 nhân công xây dựng trong 20 năm.
Trước kim tự tháp Kephem có tượng nhân sư (Sphinx), 6 kim tự tháp nhỏ là của các hoàng hậu cùng thời, một số đền đài và 400 Mastaba.

  • Việc xây kim tự tháp của Vương triều IV quá tốn kém khiến cho nền kinh tế đất nước càng lúc càng kiệt quệ. Do đó, sang
    Vương triều V (2700 TCN) việc xây dựng các kim tự tháp nhỏ hơn, cao không quá 70 m. Đồng thời, dùng các hình thức trang trí trên tường bằng những bức chạm nổi ca ngợi công đức của nhà vua. Trên đầu cột sử dụng hình tán lá cọ, có cột là kiểu hoa papyrus và hoa sen... hai kiểu cột này về sau trở thành kiểu trang trí trong kiến trúc Ai Cập.
Điêu khắc
  • Nghệ thuật điêu khắc thời Cổ Vương Quốc đạt được những thành tựu rất lớn biểu hiện ở hai mặt tượng và phù điêu (*). Tượng thường tạc trên đá, gỗ hoặc đúc bằng đồng.
  • Trong số các tượng, độc đáo nhất này là tượng Sphynx (**) (Nhân sư) trước kim tự tháp Kephren ở Gize.
  • (*) Từ thời kỳ này (cả về sau), các vua Ai Cập thường tạc tượng của mình và những người trong vương thất. (**) Thật ra, Sphynx không chỉ có ở trước kim tự tháp, chúng là những bức tượng mình sư tử đầu người hoặc dê, thường đặt trước cổng đền miếu. Cá biệt, có đền miếu có đến 500 tượng (minh họa).
  • Ngoài tượng Sphynx, mỹ thuật Ai Cập thời kỳ này còn có các tác phẩm của các loại hình điêu khắc (tượng, phù điêu); hội họa (bích họa) vừa và nhỏ: Những tác phẩm được khắc trên vách đá các hầm mộ, trên tường kim tự tháp, đền đài... với rất nhiều đề tài từ mô tả cảnh sinh hoạt đời thường, cúng tế, nghi lễ...; tượng Người thư lại ngồi (4th, Louvre, Paris), tượng gỗ Cheikhel
    Beled (4th, Cairo) được xem là bức tượng gỗ vào loại đẹp và cổ nhất Ai Cập (và cả thế giới) còn lưu lại được đến ngày nay.
  • Mặc khác, phải nói đến sự tiến triển kỹ thuật tạo hình trong các nghề thủ công của người Ai Cập cổ thời kỳ này như đồ gỗ, trang sức đá quý, chế tạo công cụ bằng đồng. Khai quật hầm mộ của nữ hoàng Hetap - Heres (4th), ngoài đồ trang sức quý giá, còn có những chiếc vòng bạc đính nhiều hạt đá chạm trỗ rất tinh vi. Hoặc theo bút tích của quan thủ thành Una, cho biết đã đóng con thuyền "dài 60, rộng 30 khủy tay trong 17 ngày....
  • Đáng chú ý nhất là kỹ thuật chế tác đá đạt đến trình độ cao. Để xây dựng kim tự tháp Cheops, người ta phải đẽo, cưa, gọt mài khoảng 2.300.000 phiến đá, trung bình mỗi phiến nặng 2.5 tấn.
  • Các phiến đá này được xử lý phẳng đến nỗi chỉ cần xếp chúng chồng khít lên nhau mà không cần bất kỳ chất kết dính nào. Ngày nay ta chỉ có thể lách mũi dao mỏng vào giữa khe của hai phiến đá mà thôi.
  • Qua đó cho thấy các thủ pháp tả thực rất tinh vi, chứng tỏ trình độ tay nghề hết sức khéo léo của các nghệ nhân Ai Cập cổ. Phần lớn các tượng vua, quan được thể hiện theo chuẩn mực nhất định; còn đối với dân thì cách thức thể hiện rất tự do trong các tư thế. Đáng chú ý là trong các tác phẩm không sử dụng luật viễn cận mà dùng tối sáng, kích thước để tạo không gian (Nguyễn Trân tr. 12).

Một số các tác phẩm mỹ thuật thời Cổ vương quốc
(3000 - 2200 TCN) / (2815 - 2400 TCN)

Kim tự tháp có thềm của Djoser (3rd) ở Saqqara

Bent Pyramid of Dashur (4th)

Two reliefs of the great pharaoh Djoser

Two reliefs of the great pharaoh Djoser presenting him in impressive poses.
At left it clearly shows his broad and heavy looks like his supposed brother Sanakht above. To the right he is sitting wearing a broad necklace and a long wig in the fashion of a priest. The artist has added an unique feature to a king though. Besides wearing his traditional false beard, here he seems to have a moustache or is it just his broad lips?

Hai bức phù điêu của pharaoh Djoser vĩ đại thể hiện anh ta trong những tư thế ấn tượng.

Ở bên trái, nó cho thấy rõ vẻ ngoài rộng lớn và nặng nề của anh ấy giống như người anh trai được cho là Sanakht ở trên. Bên phải anh ta đang ngồi đeo một chiếc vòng cổ rộng và một bộ tóc giả dài theo phong cách của một linh mục. Tuy nhiên, nghệ sĩ đã thêm một tính năng độc đáo vào một vị vua. Ngoài việc để râu giả truyền thống, ở đây anh ta dường như có bộ ria mép hay chỉ là đôi môi rộng của anh ta?

Caption

 

Menkaure is shown as a healthy well built and rather young man as he poses with the goddess Hathor (left) and a deity guarding a province. It is today exhibited at the Egyptian Museum in Cairo.

Menkaure được thể hiện là một người đàn ông khỏe mạnh và khá trẻ trung khi anh ta tạo dáng với nữ thần Hathor (trái) và một vị thần bảo vệ một tỉnh. Ngày nay nó được trưng bày tại Bảo tàng Ai Cập ở Cairo.

Caption

 

Menkaure
To the right he is seen with his favourite queen Khamerernebty II, and this is a masterpiece in Egyptian sculpture, today to be seen in the Metropolitan Museum of Art in New York.

Menkaure

Ở bên phải, ông được nhìn thấy với nữ hoàng Khamerernebty II yêu thích của mình, và đây là một kiệt tác trong điêu khắc Ai Cập, ngày nay được nhìn thấy tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở New York.

The head of Sphynx front of Khephren Pyramid
Tượng người thư lại ngồi ở bảo tàng Louvre - The seated scribe louvre museum

 


Tham khảo từ

- Giáo trình giảng dạy của thầy Trương Bửu Hoàng