TRANH ĐẸP XỨ ĐÔNG DƯƠNG

✽ 600 BỨC TRANH ĐẸP CỦA NHIỀU HỌA SĨ SÁNG TÁC Ở XỨ ĐÔNG DƯƠNG

Danh sách các họa sĩ đã cập nhật:

  • ANDRÉ JOYEUX - https://bit.ly/31QOXiA
    • Hiệu trưởng đầu tiên của Trường Vẽ (L’École de Dessin) thành lập năm 1913 ở Nam Kỳ. Việc thành lập trường đã tạo ra một diện mạo mới cho sự phát triển mỹ thuật ở phía Nam.
  • VICTOR TARDIEU - https://bit.ly/3fTyYW0
    • Người đồng sáng lập, hiệu trưởng đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, thành lập năm 1925 ở Bắc Kỳ, tiền thân của Đại học Mỹ thuật Hà Nội.
    • Là một nhà sư phạm mỹ thuật mẫu mực, dành nhiều tâm huyết cho việc xây dựng Trường CĐMT Đông Dương nơi đã đào tạo ra nhiều tên tuổi lớn của hội họa Việt Nam như Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân…
    • Ông dạy chủ yếu về sơn dầu.
  • NAM SƠN - https://bit.ly/2Y5fyYh
    • Người viết bản thảo "Đề cương Mỹ thuật Việt Nam" và thuyết phục được Victor Tardieu đề nghị lên nhà nước Bảo hộ chấp thuận thành lập Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương vào năm 1925.
    • Người đặt nền móng đầu tiên cho nền mỹ thuật đương đại Việt Nam.
    • Người tham gia giảng dạy từ khóa đầu tiên đến khóa cuối cùng ở Trường CĐMT Đông Dương, tất cả 17 khóa, từ 1925 - 1945 và phần thưởng lớn nhất ông đạt được là đã tham gia đào tạo hơn 120 họa sĩ, nhà điêu khắc tài năng, niềm tự hào của Mỹ thuật Việt Nam.
  • JOSEPH INGUIMBERTY - https://bit.ly/2Y4Defb
    • Thầy giáo Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
    • Những năm tháng ông giảng dạy tại trường không chỉ kích thích sự hồi sinh của tranh sơn mài Việt mà còn khuyến khích học trò của mình thử nghiệm với tranh sơn mài để nâng tầm sơn ta, từ những món đồ mỹ nghệ thủ công, lên thành một thể loại tranh nghệ thuật.
    • Ông dạy chủ yếu về trang trí.
  • JULES GUSTAVE BESSON - https://bit.ly/3kIeYJL
    • Ông giữ chức vụ Chánh Thanh tra các Trường Mỹ thuật & Mỹ nghệ ở miền Nam.
    • Hiệu trưởng của Trường Mỹ thuật Gia Định hơn 10 năm
    • Người gợi ý và hướng dẫn thực hiện "Bộ Chuyên khảo bằng tranh vẽ về Đông Dương (Monographie dessinée de l’Indochine) cùng với các học trò của mình ở Trường Mỹ thuật Gia Định.
    • Ông dạy chủ yếu về hình họa.
  • GASTON ROULLET - https://bit.ly/3fZFDhe
    • Gaston Roullet được cho là họa sĩ Pháp đầu tiên vẽ về Vịnh Hạ Long.
    • Họa sỹ Gaston Roullet và bác sỹ Hocquard là hai người bạn thân đồng hành chuyến vào Đà Nẵng - Huế đầu năm 1886, trong khi Hocquard chụp ảnh thì Roullet ký hoạ, vì vậy trong cuốn “Một chiến dịch ở Bắc Kỳ” người dân ở Tourane (Đà Nẵng) đã gọi hoạ sỹ là “ông quan cái bút” còn người chụp ảnh là “ông quan cái đèn”.
  • ALIX AYMÉ - https://bit.ly/3iOzuXn
    • Bà được coi là một tài năng thiên bẩm trong cả hai lĩnh vực hội họa và âm nhạc.
    • Năm 1931, Alix Aymé làm giáo sư mỹ thuật tại Lycée Albert Sarraut. Đây là một trong những trường trung học nổi tiếng nhất ở Đông Dương đào tạo bậc trung học bán phần cho con các quan chức Pháp tại Đông Dương, đồng thời các con quan chức cao cấp người Việt làm cho Pháp.
    • Từ năm 1934-1939, Alix Aymé cũng là nữ họa sĩ duy nhất trong danh sách các giáo sư của Trường CĐMT Đông Dương. Bà cũng đã hướng dẫn nhiều sinh viên sau này trở thành những tên tuổi lớn của mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
    • Alix Aymé dạy kỹ thuật làm tranh sơn mài truyền thống Việt Nam mà bà đã nghiên cứu tường tận và vẽ rất nhiều tác phẩm với chất liệu này.
    • Hình ảnh Việt Nam hiện diện rất nhiều trong các tác phẩm của Alix Aymé. Bà qua đời năm 1989 vào đúng sinh nhật thứ 95 trong lúc đang đi những nét cuối cùng trên bức tranh sơn mài cuối cùng.
    • Bà dạy chủ yếu về sơn mài.
  • JOS HENRI PONCHIN - https://bit.ly/31S5RO0
    • Ông từng dạy vẽ ở Sài Gòn và là họa sĩ vẽ nhiều tranh cổ động cho ngành du lịch thời kỳ đó.
  • LÊ PHỔ - https://bit.ly/31U296h
    • Là sinh viên khóa I của Trường CĐMT Đông Dương. Ông là một trong 10 sinh viên Việt Nam được giáo sư Victor Tardieu (một họa sĩ am hiểu sâu sắc các trường phái nghệ thuật châu Âu) xếp vào nhóm sinh viên "tinh hoa" của khóa học.
    • Là họa sĩ bậc thầy Việt Nam và trên thế giới theo trường phái hậu ấn tượng với nhiều tác phẩm đắt giá. Ông còn được nhiều người gọi là "Danh họa Việt Nam trên đất Pháp". Nhiều người khác còn coi ông là "cây đại thụ" trong làng nghệ thuật vẽ tranh Việt Nam.
    • Năm 1928, ông cùng với các họa sĩ Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ tổ chức triển lãm tranh đầu tiên tại Hà Nội.
    • Họa sĩ Lê Phổ cho rằng các chất liệu tranh lụa có một số nhược điểm không chỉ về khuôn khổ mà về chất liệu màu sắc chưa bộc lộ những lời tác giả muốn thể hiện. Đó là lý do ông đã chuyển sang vẽ tranh sơn dầu. Ngoài việc thay đổi chất liệu vẽ, nội dung được ông nhắc tới cũng mở rộng, phóng khoáng và thoải mái hơn. Ví dụ rõ nét đó là người phụ nữ trong tranh của họa sĩ dần vượt ra ngoài lễ giáo ngàn năm để mang một sắc màu "thế tục".
    • Tranh của ông chủ yếu lấy đề tài phụ nữ, trẻ nhỏ và hoa...
  • VUA HÀM NGHI - https://bit.ly/2Ya7TIc
    • Ông là một vị vua yêu nước có tư tưởng chống thực dân Pháp.
    • Ông là vị vua thứ 2 có năng khiếu hội họa và sáng tác khoảng hơn 100 bức tranh (không có một bức tranh nào ông vẽ khi đang ở Việt Nam, những sáng tác đều ở giai đoạn ông bị lưu đày sang xứ Algérie và ở Pháp)
    • Tranh của ông chủ yếu là chất liệu sơn dầu, đề tài thiên về thiên nhiên phong cảnh và gần như không có một bóng người trong tranh.
  • VUA ĐỒNG KHÁNH - https://bit.ly/2CFj3x4
    • Ông là vị vua với tính tình hiền lành, cũng có muốn duy tân nhưng không chống Pháp nên rất được lòng người Pháp.
    • Tranh ông vẽ không nhiều và tất cả đều được sáng tác ở Việt Nam trước khi mất vào năm 25 tuổi.
  • MAI TRUNG THỨ -
    • Ông là một trong những họa sỹ tốt nghiệp khóa đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1925-1930), là một hoạ sĩ nổi tiếng của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20.
    • Là một trong nhóm tứ kiệt của nền hội họa Việt Nam (Phổ – Thứ – Lựu – Đàm), Mai Trung Thứ đã để lại một tài sản tinh thần vô giá với những bức tranh nhẹ như gió thoảng. Tên tuổi ông trong hội họa gắn liền với những tác phẩm tranh lụa về đề tài phụ nữ, trẻ em, cuộc sống thường ngày dưới cái nhìn mang đầy màu sắc văn hóa Á Đông.
    • Hình ảnh con người và cảnh vật trong tranh của Mai Trung Thứ nổi lên với sắc thái sâu đậm và hồn nhiên, như nỗi nhớ quê hương lúc nào cũng đau đáu trong lòng ông.
    • Tranh lụa Mai Trung Thứ không chỉ được người Pháp yêu quý mà còn được cơ quan UNESCO của tổ chức Liên Hợp Quốc chọn như một biểu tượng nghệ thuật của tình yêu dành cho trẻ em trên toàn thế giới.

✽ BOULLARD - DEVE
✽ ANDRÉ MAIRE
✽ HENRI MÈGE - https://bit.ly/2FaTdlo
✽ HENRI EMILE VOLLET - https://bit.ly/31SEcMT
✽ RENÉ BASSOULS - https://bit.ly/2DXz7uu
✽ STÉPHANE BRECQ - https://bit.ly/3iJ8g46
✽ ALEXANDER YAKOVLEV - https://bit.ly/3iFTP0P

 

 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...
 
...

- - - -

Những hoạ sĩ Việt Nam nổi tiếng với dòng tranh Đông Dương đối chiếu với các khóa học kéo dài từ năm 1925 đến 1945 tại Trường CĐMT Đông Dương gồm:

  • Khóa I (1925 - 1930) có Nguyễn Phan Chánh, Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Công Văn Chung, Lê Văn Đệ, Georges Khánh và Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh - chưa tốt nghiệp, sau lại học tiếp);
  • Khóa II (1926 - 1931) có Tô Ngọc Vân, Hồ Văn lái, Vũ Cao Đàm;
  • Khóa III (1927 - 1932) có Lê Thị Lựu, Nguyễn Cao Luyện, Trần Quang Trân, Hoàng Lập Ngôn;.
  • Khóa IV (1928 – 1933) có Họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tường Lân… (Nguyễn Gia Trí đã tốt nghiệp, nhưng sau đó lại đi học tiếp Khóa IV);
  • Khóa V (1929 -1934) Nguyễn Đỗ Cung, Phạm Hậu;
  • Khóa VII (1931 -1936) có Trần Văn Cẩn;
  • Khóa VIII (1932 – 1937) có Lương Xuân Nhị;
  • Khóa IX (1933 – 1938) có Nguyễn Đức Nùng, Trịnh Hữu Ngọc, Nguyễn Dung, Hoàng Lập Ngôn;
  • Khóa XI (1936 – 1941) có Nguyễn Tiến Chung, Hoàng Tích Chù, Nguyễn Văn Tỵ;
  • Khóa XII (1937 – 1942) có Nguyễn Văn Bình;
  • Khóa XIII (1939 -1944) có Nguyễn Sỹ Ngọc, Trần Đình Thọ, Phạm Văn Đôn, Nguyễn Trọng Hợp, Huỳnh Văn Thuận;
  • Khóa XIV (1940 – 1945) có Nguyễn Sáng;
  • Khóa XV (1941 -1954) có Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Tạ Thúc Bình, Huỳnh Văn Gấm;
  • Khóa XVI (1942 – 1945) có Quang Phòng, Phan Thông, Đinh Minh, Trần Phúc Duyên;
  • Khóa XVII (1943 – 1945) có Mai văn Hiến, Mai Văn Nam, Lê Thanh Đức;
  • Khóa XVIII (1944 – 1945) là khóa học cuối cùng có Phan Kế An, Dương Bích Liên, Nguyễn Văn Thiện, Kim Đồng, Nguyễn Như Huân.

 

Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương

 

 

HAI " BỘ TỨ KIỆT " CỦA HỘI HỌA VIỆT NAM NỔI TIẾNG Ở TRONG NƯỚC:

✤ Bộ tứ thứ nhất: “ Nhất TRÍ, nhì VÂN, tam LÂN, tứ CẨN ”

  1. Nguyễn Gia Trí (1908-1993) là một trong những người tiên phong tạo ra khuynh hướng nghệ thuật mới cho hội họa Việt Nam.
  2. Tô Ngọc Vân (1908-1954) được đánh giá là người có công đầu trong việc sử dụng chất liệu sơn dầu ở Việt Nam.
  3. Nguyễn Tường Lân (1906-1946), trong bộ tứ thứ nhất của hội họa Việt Nam, danh họa Nguyễn Tường Lân là nhân vật được biết đến ít nhất. Ông ít được biết đến bởi tác phẩm của ông rất ít dù rằng thực tế ông sáng tác khá nhiều.
  4. Trần Văn Cẩn (1910-1994), cùng với Tô Ngọc Vân, danh họa Trần Văn Cẩn là họa sĩ có tác phẩm “Em Thúy” được công nhận là Bảo vật quốc gia. Ông cũng là người chỉnh sửa mẫu phác thảo Quốc huy Việt Nam thành dạng hoàn chỉnh như ngày nay.

✤ Bộ tứ thứ hai: “ Nhất SÁNG, nhì LIÊN, tam NGHIÊM, tứ PHÁI ”

  1. Nguyễn Sáng (1923-1988) là cây đại thụ của sơn mài Việt Nam, có nhiều đóng góp tiêu biểu cho hội họa Việt Nam hiện đại.
  2. Dương Bích Liên (1924-1988) là người ít được biết đến bởi ông đã "tự nguyện chọn tiếng im lặng của hội họa làm bản thân". Ông thiên về vẽ chân dung, rất nổi tiếng với đề tài thiếu nữ. Mọi chất liệu đều được ông thể hiện nhuần nhuyễn, độc đáo, siêu thoát đặc biệt là các thể loại sơn mài, sơn dầu, phấn mầu và chì than. Họa giới Việt Nam có câu thành ngữ “phố Phái, gái Liên” nhằm chỉ những đề tài mà hai họa sĩ này rất thành công.
  3. Nguyễn Tư Nghiêm (1922-2016) là hoạ sĩ hiếm hoi của nền mỹ thuật Việt Nam có bảo tàng riêng, tọa lạc tại 90 B2 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm. Giới phê bình nghệ thuật thời bấy giờ từng nhìn nhận, tranh của danh họa Nguyễn Tư Nghiêm phối hợp bút pháp hiện đại với tư duy cổ truyền, địa phương, tạo nên bản sắc riêng.
  4. Bùi Xuân Phái (1920-1988) là họa sĩ nổi tiếng nhất Việt Nam với tranh phố.

- - - -

NHÓM " TỨ KIỆT TRỜI ÂU " CỦA NỀN HỘI HỌA VIỆT NAM:

" PHỔ - THỨ - LỰU - ĐÀM "

  1. Lê Phổ (1907-2001) là họa sĩ bậc thầy Việt Nam và trên thế giới theo trường phái hậu ấn tượng với nhiều tác phẩm đắt giá. Trong số các họa sĩ Việt Nam, hiếm có họa sĩ nào như Lê Phổ để lại một gia tài nhiều tác phẩm có giá trị về mặt nghệ thuật cũng như giá trị kinh tế.
  2. Mai Trung Thứ (1906-1980) là một họa sĩ nổi tiếng của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20. Tên tuổi ông trong hội họa gắn liền với những tác phẩm tranh lụa về đề tài phụ nữ, trẻ em, cuộc sống thường ngày dưới cái nhìn mang đầy màu sắc văn hóa Á Đông.
  3. Lê Thị Lựu (1911-1988) là nữ họa sĩ đầu tiên của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Thi đỗ và tốt nghiệp thủ khoa khóa 3 của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Giới mỹ thuật Việt Nam, nhất là những người yêu dòng tác phẩm thuộc thế hệ Mỹ thuật Đông Dương đều biết đến bà, không chỉ là một nữ họa sĩ Đông Dương đầu tiên của người Việt Nam mà bà còn có nhiều đóng góp cho việc giảng dạy hội họa cho các thế hệ sau, đồng thời góp vào di sản mỹ thuật Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị.
  4. Vũ Cao Đàm (1908-2000) là là họa sĩ, nhà điêu khắc với nhiều tác phẩm tranh, tượng nổi tiếng được triển lãm ở nơi trên thế giới.

- - - -

★ Liên bang Đông Dương (Union Indochinoise) thành lập vào ngày 17/10/1887. Rất nhiều họa sĩ vốn có dòng máu phiêu lưu lãng tử, đã theo trào lưu thuộc địa tìm đến Viễn Đông khám phá thế giới đầy bí hiểm và quyến rũ. Họ có cơ hội diễn tả những suy nghĩ và cảm hứng của mình qua các tác phẩm với nhiều đề tài khác lạ và màu sắc tân kỳ rực rỡ.

Năm 1893, Hội họa sĩ xu hướng Đông phương (Société Des Peintres Orientalistes) chào đời với mục đích tìm hiểu và trình bày nền văn hóa và nghệ thuật Đông phương. Năm 1908 thành lập Hội Thuộc địa nghệ sĩ Pháp (Société Coloniale Des Artistes Français), dưới sự bảo trợ của Nha Học chánh Ðông Pháp và Bộ Nghệ thuật, Bộ Thuộc địa và Bộ Nội vụ. Điểm chính yếu của Hội thuộc địa nghệ sĩ Pháp là số học bổng du lịch rất quan trọng đã trao tặng cho người đoạt giải để tham quan tìm hiểu văn hóa tại các nước thuộc địa. Ngoài ra, hội còn thành lập nhiều giải thưởng khác nhau, trong đó có giải thưởng Đông Dương (prix de l’Indochine).

Giải thưởng Đông Dương do Toàn quyền Klobukowski ban nghị định năm 1910, theo đề xướng của Hội Thuộc địa nghệ sĩ Pháp, với ý định tuyên truyền và phát khởi nghệ thuật phương Tây nói chung và nước Pháp nói riêng tại Đông Dương, khuyến khích các nghệ sĩ đến các nước thuộc địa, canh tân niềm cảm hứng trong việc sáng tác, sau đó mang về Pháp những tìm hiểu và học hỏi mới để thắt chặt mối quan hệ giữa các nước thuộc địa với chính quốc. Giải thưởng này đã ban cho 21 họa sĩ, đầu tiên là Ferdinand Olivier và cuối cùng là Louis Bâte.

★ Tại Đông Dương, các trường mỹ nghệ thực hành đã được thành lập, như trường Mỹ thuật đồ mộc Thủ Dầu Một vào năm 1901, trường Nghệ thuật và Kỹ nghệ Biên Hòa năm 1903 và “trường vẽ Gia Định” (École de Dessin) năm 1913, nhưng chưa có trường chuyên về mỹ thuật.

Theo khởi xướng và đề nghị của họa sĩ Nam Sơn và Victor Tardieu trong một bản phúc trình dưới cái tên “Nghệ thuật An Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai” đã đề cập với chính quyền thuộc địa vấn đề mở ra một trường mỹ thuật tại Đông Dương.

Bản phúc trình này được chuẩn y bởi Toàn quyền Merlin. Ngày 27/10/1924, xuất hiện trên Công báo nghị định thành lập trường Mỹ thuật Đông Dương (École Des Beaux-Arts De l’Indochine). Trường này trực hệ Giáo đoàn Pháp (l’Université De France) tại Hà Nội, dưới sự hướng dẫn và kiểm soát của Nha Học chánh, với Victor Tardieu là hiệu trưởng.

★ Sự ra đời của trường Mỹ thuật Đông Dương là một bước ngoặt định mệnh cho nền hội họa nói riêng và đời sống văn hóa Việt Nam nói chung. Trường mang lại một phong cách diễn đạt mới trong mỹ thuật, nhất là ở một quốc gia mà hội họa trước đó không phải là một ngành nghệ thuật phát triển. Cùng với chữ quốc ngữ tưng bừng khai hoa, trường Mỹ thuật Đông Dương đã đáp ứng nhu cầu canh tân đất nước, vì các sĩ phu hiểu rằng muốn xóa bỏ sự đô hộ của người Pháp, người Việt Nam phải thấu hiểu văn minh Tây phương.

Điều chắc chắn là sự hợp tác chặt chẽ giữa người Pháp Victor Tardieu và người bản xứ Nam Sơn, dựa trên tinh thần yêu chuộng nghệ thuật, là điều cần thiết và lợi ích trong việc hình thành nền mỹ thuật riêng biệt tại Việt Nam.
(*) vietnamarts
(*) wikipedia


Nguồn: https://www.facebook.com/media/set/?set=a.613036879633977&type=3